Ngày xưa Thượng Đế không ai biết, vì có Phật , có Chúa giáng trần lập Đạo để giáo dân qui thiện. NHƯNG kể từ năm 1926, Thượng Đế xử dụng huyền cơ diệu bút, qua hai đồng tử siêu đẳng là Ngài Phạm công Tắc và Ngài Cao Quỳnh Cư, dạy nhơn sanh. Lời nói đó, in thành sách mang tên THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN.
Mời quý vị cùng xem :
và
From: lytran lenguyen <lytranlenguyen75@yahoo.fr>
To: "ChinhNghiaViet@yahoogroups.com" <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>;
Cc: 1. PHAM HOANG VUONG <phamhba@yahoo.com>; Ba Nguyen <hbnguyen2005@yahoo.com.au>; Bac Ky
Sent: Saturday, 5 May 2012 11:29 PM
Subject: Thượng Đế không hiện hữu, Đức Phật chỉ là Đức Phật cho nê n sau khi giải tán Hội Thông Thiên Học, Ngài J.Krishnamurti giảng giải như sau : Re : [ChinhNghiaViet] Đức Phật hiện lúc 8:35pm tối nay Thứ Bảy ngày 5 tháng 5 dương lịch, giờ California (Pacific time)
Thượng Đế không hiện hữu, Đức Phật
chỉ là Đức Phật !
Sau khi giải tán Hội Thông Thiên Học,
Ngài J.Krishnamurti giảng giải như sau :
Liệu một đạo sư cần thiết hay không. Liệu sự thật có thể tìm được qua một người khác? Một số người nói nó có thể và một số người nói nó không thể. Chúng ta muốn biết sự thật của điều này, không phải quan điểm của tôi đối nghịch quan điểm của người khác. Tôi không có quan điểm gì trong vấn đề này. Hoặc nó là như thế hoặc không. Liệu có cần thiết rằng bạn phải có hay không có một đạo sư không là một câu hỏi của quan điểm, dù sâu sắc, uyên bác, phổ biến, hay ưa chuộng. Sự thật của vấn đề phải được tìm ra trong sự kiện.
Trước hết, tại sao chúng ta muốn một đạo sư? Chúng ta nói chúng ta cần một đạo sư bởi vì chúng ta bị hoang mang, và vị đạo sư sẽ hữu ích. Anh ấy sẽ vạch rõ sự thật là gì, anh ấy sẽ giúp đỡ chúng ta hiểu rõ, anh ấy biết nhiều về sống hơn chúng ta, anh ấy sẽ hành động như một người cha, như một người thầy để hướng dẫn chúng ta trong sống. Anh ấy có sự trải nghiệm rộng khắp và chúng ta chẳng có bao nhiêu; anh ấy sẽ giúp đỡ chúng ta qua những trải nghiệm rộng khắp của anh ấy, và vân vân và vân vân. Tại cơ bản, đó là, bạn nương dựa một người thầy bởi vì bạn bị hoang mang. Nếu bạn được rõ ràng, bạn sẽ không cần gần gũi người nào cả. Chắc chắn, nếu bạn có hạnh phúc sâu thẳm, nếu không có những vấn đề, nếu bạn hiểu rõ trọn vẹn về sống, bạn sẽ không nương dựa bất kỳ vị đạo sư nào. Tôi hy vọng bạn thấy ý nghĩa của nó.
Bởi vì bạn bị hoang mang, bạn tìm kiếm một người thầy. Bạn nương dựa anh ấy để trao tặng cho bạn một phương cách sống, để làm sáng sủa sự hoang mang riêng của bạn, để tìm ra sự thật. Bạn chọn lựa vị đạo sư của bạn bởi vì bạn bị hoang mang, và bạn hy vọng anh ấy sẽ trao tặng bạn điều gì bạn đòi hỏi. Đó là, bạn chọn lựa người nào đó mà sẽ thỏa mãn sự đòi hỏi của bạn; bạn chọn lựa tùy theo sự thỏa mãn mà anh ấy sẽ trao tặng cho bạn, và sự chọn lựa của bạn phụ thuộc vào sự thỏa mãn của bạn. Bạn không chọn lựa một đạo sư mà nói hãy phụ thuộc vào chính bạn. Bạn chọn lựa anh ấy tùy theo những thành kiến của bạn. Vậy là, bởi vì bạn chọn lựa vị đạo sư của bạn tùy theo sự thỏa mãn anh ấy trao tặng cho bạn, bạn không đang tìm kiếm sự thật nhưng đang tìm kiếm một phương cách thoát khỏi sự hoang mang của bạn; và phương cách thoát khỏi sự hoang mang bị lầm lẫn gọi là sự thật.
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý tưởng rằng một đạo sư có thể khai quang sự hoang mang của bạn. Liệu bất kỳ người nào khác có thể khai quang sự hoang mang của bạn mà là sản phẩm của những phản ứng của chúng ta? Chúng ta đã tạo ra nó. Bạn nghĩ người nào khác đã tạo ra sự đau khổ này, trận chiến này tại mọi mức độ của sự tồn tại, cả phía bên trong lẫn phía bên ngoài? Nó là kết quả của sự không-hiểu rõ về chính mình của chúng ta. Do bởi chúng ta không hiểu rõ về chính chúng ta, những xung đột của chúng ta, những phản ứng của chúng ta, những đau khổ của chúng ta, nên chúng ta mới nương dựa một đạo sư mà chúng ta nghĩ sẽ giúp đỡ chúng ta được tự do khỏi sự hoang mang đó. Chúng ta có thể hiểu rõ về chính chúng ta chỉ trong sự liên hệ với hiện tại; và chính sự liên hệ đó là đạo sư, không phải người nào khác phía bên ngoài. Nếu tôi không hiểu rõ sự liên hệ đó, bất kỳ điều gì vị đạo sư nói đều vô ích, bởi vì nếu tôi không hiểu rõ sự liên hệ của tôi với tài sản, với con người, với những ý tưởng, ai có thể giải quyết được sự xung đột bên trong tôi? Muốn giải quyết sự xung đột đó, chính tôi phải tự hiểu rõ nó, mà có nghĩa tôi phải nhận biết được chính tôi trong sự liên hệ. Muốn nhận biết, không đạo sư nào là cần thiết. Nếu tôi không hiểu rõ về chính tôi, một vị đạo sư có ích lợi gì? Giống như một người lãnh đạo chính trị được chọn lựa bởi những người bị hoang mang, và sự chọn lựa của những người đó cũng bị hoang mang, thế là tôi chọn lựa một đạo sư. Tôi có thể chọn lựa anh ấy chỉ tùy theo sự hoang mang của tôi. Vậy là, anh ấy, giống như người lãnh đạo chính trị, cũng bị hoang mang.
Vì vậy, điều gì quan trọng không phải là ai đúng – liệu tôi đúng, hay những người nói một đạo sư là cần thiết – nhưng tìm ra tại sao tôi cần một đạo sư. Những đạo sư tồn tại vì sự trục lợi thuộc nhiều loại khác nhau, nhưng điều đó không liên quan. Nó cho bạn sự thỏa mãn nếu người nào đó bảo cho bạn rằng bạn đang tiến bộ ra sao. Nhưng tìm ra tại sao bạn cần một đạo sư – chìa khóa nằm ở đó. Một người khác có thể chỉ rõ phương cách; nhưng bạn phải làm tất cả mọi việc, thậm chí nếu bạn có một đạo sư. Bởi vì bạn không muốn đối diện với sự kiện đó, bạn chuyển trách nhiệm sang vị đạo sư. Vị đạo sư trở thành vô ích khi có một chút ít hiểu rõ về chính mình. Không đạo sư, không quyển sách hay kinh thánh, có thể cho bạn sự hiểu rõ về chính mình; nó hiện diện khi bạn nhận biết được chính bạn trong sự liên hệ. Hiện diện là có liên hệ. Không hiểu rõ về liên hệ là đau khổ, bất an.
Không nhận biết được sự liên hệ của bạn với tài sản là một trong những nguyên nhân của hoang mang. Nếu bạn không biết sự liên hệ đúng đắn của bạn với tài sản, chắc chắn phải có xung đột, mà gia tăng sự xung đột trong xã hội. Nếu bạn không hiểu rõ sự liên hệ giữa bạn và người vợ của bạn, giữa bạn và người con của bạn, làm thế nào một người khác có thể giải quyết được sự xung đột đang nảy sinh từ sự liên hệ đó? Tương tự như thế với những ý tưởng, những niềm tin, và vân vân. Bởi vì bị hoang mang trong sự liên hệ của bạn với con người, tài sản, và những ý tưởng, bạn tìm kiếm một đạo sư. Nếu anh ấy là một đạo sư đúng đắn, anh ấy sẽ bảo cho bạn phải hiểu rõ về chính bạn. Bạn là cái nguồn của tất cả sự hiểu lầm và hoang mang; và bạn có thể giải quyết được sự xung đột đó chỉ khi nào bạn hiểu rõ về chính bạn trong sự liên hệ.
Bạn không thể tìm được sự thật nhờ vào bất kỳ người nào khác. Làm thế nào bạn có thể? Chắc chắn, sự thật không là cái gì đó đứng yên; nó không có chỗ ở cố định; nó không là một kết thúc, một mục đích. Ngược lại, nó đang sống, năng động, linh động, sinh động. Làm thế nào nó có thể là một kết thúc? Nếu sự thật là một điểm cố định, nó không còn là một sự thật; lúc đó nó chỉ là một quan điểm. Sự thật là cái không biết được, và một cái trí đang tìm kiếm sự thật sẽ không bao giờ tìm được nó. Bởi vì cái trí được tạo thành từ cái đã được biết, nó là kết quả của quá khứ, kết quả của thời gian – điều đó bạn có thể tự quan sát cho chính bạn.
Vì vậy, cái trí là dụng cụ của cái đã được biết, nó không thể tìm ra cái không biết được; nó chỉ có thể chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết. Khi cái trí tìm kiếm sự thật, sự thật nó đã đọc được trong những quyển sách, ‘sự thật’ đó là tự-chiếu rọi; nó là tưởng tượng, không thật. Cái gì có thật là cái gì là, không phải cái đối nghịch. Nhưng một cái trí đang tìm kiếm sự thật, đang tìm kiếm Thượng đế, là đang tìm kiếm cái đã được biết. Khi bạn suy nghĩ về Thượng đế, Thượng đế của bạn là sự chiếu rọi của sự suy nghĩ riêng của bạn, kết quả của những ảnh hưởng xã hội. Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái đã được biết; bạn không thể suy nghĩ về cái không biết được, bạn không thể tập trung về sự thật. Khoảnh khắc bạn suy nghĩ về cái không biết được, nó chỉ là cái đã được biết tự-chiếu rọi. Vì vậy, không thể suy nghĩ về Thượng đế hay sự thật. Nếu bạn suy nghĩ về nó, nó không là sự thật. Sự thật không thể được tìm kiếm; nó tự đến với bạn. Bạn chỉ có thể theo đuổi cái gì đã được biết. Khi cái trí không bị hành hạ bởi cái đã được biết, bởi những ảnh hưởng của cái đã được biết, chỉ đến lúc đó sự thật có thể tự-phơi bày. Sự thật ở trong mỗi chiếc lá, mỗi giọt nước mắt; nó phải được biết từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Không ai có thể dắt bạn đến được sự thật; và nếu có người nào dắt bạn, nó chỉ có thể đến cái đã được biết.
De : Thuan Do <dothuan@sbcglobal.net>
À : diendan_tudo@yahoogroups.com; diendancongluan@yahoogroups.com; diendandanchu@yahoogroups.com;
Envoyé le : Samedi 5 mai 2012 16h00
Objet : [ChinhNghiaViet] Đức Phật hiện lúc 8:35pm tối nay Thứ Bảy ngày 5 tháng 5 dương lịch, giờ California (Pacific time)
Các bạn tôi, những người biết thiền định giỏi, sẽ tắm rửa sạch sẽ trước giờ đó để thiền định và hướng về nơi Đức Phật hiện để hy vọng được thấy ngài trong thể vía .
Tôi thì chưa đủ khả năng .
Thuan
===================================
LỄ WESAK (Một buổi lễ huyền bí) Tác giả C. W. LEADBEATER NGUYỄN HỮU KIỆT dịch (Trích trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo) | ![]() | |
![]() | ![]() Ngày Đức Phật xuất hiện mỗi năm một lần để ban ân huệ cho thế gian nhằm vào ngày rằm tháng năm, bên Ấn Độ và Tích Lan gọi là ngày Wesak, thường vào tháng năm dương lịch. Ngày đó cũng là ngày kỷ niệm những dịp quan trọng xảy ra trong kiếp sống cuối cùng của Đức Phật ở cõi trần, tức ngày sinh, ngày thành đạo và ngày tịch diệt của Ngài. Vào dịp này, ngoài ý nghĩa về phương diện huyền bí vô cùng quan trọng của nó, có một cuộc lễ được cử hành ở thế gian, trong cuộc lễ ấy, Đức Phật hiện trước mặt một số đông người hành hương. Những người này có được thấy Ngài hay không, thì tôi không biết chắc; nhưng họ đều cúi lạy theo những vị Chơn Tiên và các đệ tử, những vị này đều thấy Đức Phật hiện ra thật sự. Hình như ít nhất cũng có vài người hành hương được nhìn thấy Ngài, vì cuộc lễ này được những người Phật tử ở vùng Trung Á biết rõ. Người ta nhắc nhở đến cuộc lễ đó như sự xuất hiện hình bóng hay sự phản ảnh của Đức Phật, và sự mô tả cuộc lễ theo tục truyền có phần khá đúng. Như vậy những người sống ở vùng lân cận nơi Đức Phật hiện không có lý do gì mà không đến dự nơi hành lễ, vì không hạn chế số người đến xem, mặc dầu người ta nghe nói có những nhóm người hành hương đã từng đi dọ dẫm suốt nhiều năm mà không thấy nơi hành lễ. Tất cả những Đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội đều đến dự lễ, trừ Đức Ngọc Đế và ba Vị đệ tử của Ngài. Vậy không có lý do gì mà những người hội viên Thông Thiên Học chúng ta lại không đến dự bằng thể vía của mình. Những người nào đã được biết rõ về ngày giờ hành lễ, thường sắp đặt công việc riêng của họ để có thể đi ngủ vào khoảng một hay vài giờ trước giờ cử hành vào đêm trăng rằm, và ngủ yên một chỗ cho đến một giờ sau khi cuộc lễ chấm dứt. ![]() NƠI HÀNH LỄ Địa điểm được chọn để hành lễ là một vùng cao nguyên nhỏ có những đồi thấp bao bọc chung quanh, ở phía bắc dãy Hi Mã Lạp Sơn cách biên giới xứ Népal không xa, và có lẽ độ chừng 400 dặm phía tây thành phố Lhasa bên Tây Tạng. Đó là một khoảnh đất bằng phẳng, hình chữ nhựt, độ chừng một dặm rưỡi bề dài và bề ngang thì ngắn hơn. Khoảng đất thoai thoải từ hướng nam lên hướng bắc, hầu hết trống trải và có đá, mặc dù rải rác có cỏ dại và bụi cây. Một dòng suối chảy qua ở góc phía tây vùng cao nguyên, và lên phía bắc thì nó chảy vào một thung lũng có rừng thông bao phủ, sau cùng nó đổ vào một cái hồ cách đó một quãng vài dặm. Vùng chung quanh có vẻ hoang vu hẻo lánh, không có người ở, và không có một nhà nào trừ ra cái tháp cổ đã điêu tàn với vài ba cái chòi rải rác trên sườn một ngọn đồi ở về phía đông. Về phía nam, có một tảng đá lớn màu xám dựng đứng như bàn thờ, độ bốn thước bề dài và hai thước bề ngang, nhô lên khỏi mặt đất chừng một thước. Vài ngày trước khi hành lễ, người ta thấy dọc hai bên bờ suối, dưới chân những ngọn đồi chung quanh có những ngọn lều được dựng lên mỗi lúc càng nhiều. Những túp lều này có một hình dáng lạ lùng, phần nhiều màu đen, và chốn hoang vu cô tịch này bỗng nhiên trở nên linh động với những ngọn lửa trại của những người đi hành hương đốt lên. Họ là những bộ lạc lưu động từ miền Trung Á và có người từ miền bắc xa xôi đến đây. Vào ngày trước đêm trăng tròn, họ đều tắm gội sạch sẽ, và thay quần áo mới để chuẩn bị hành lễ. Vài giờ trước khi hành lễ, họ tựu họp ở chỗ góc phía bắc vùng cao nguyên, họ ngồi xuống đất một cách lẳng lặng có trật tự và chừa một khoảng trống trước chỗ tảng đá lớn làm bàn thờ. Theo thông lệ, thì vài vị sư trưởng (lamas) có mặt, mượn cơ hội này để thuyết pháp cho dân chúng. Độ một giờ trước khi trăng tròn, những vị khách dự lễ bắt đầu đến bằng thể vía của các Ngài, trong số đó có những nhân viên Quần Tiên Hội. Vài Vị trong số đó hiện hình cho những người hành hương thấy rõ, và những người này liền cúi lạy các Ngài. Trong dịp này những đấng Chơn Sư, có vài Vị cấp đẳng cao hơn nữa cũng nói chuyện thân mật với các vị đệ tử và với những người khác đang có mặt tại chỗ. Trong khi đó những người khác có phận sự chưng dọn bàn thờ trên tảng đá lớn để chuẩn bị cuộc lễ. Họ đặt lên đó những bông hoa đẹp đẽ nhứt và ở bốn góc thì để những tràng hoa sen. Giữa bàn thờ, có đặt một chén bằng vàng đựng đầy nước và ngay trước mặt có chừa một khoảng trống giữa các đóa hoa. CUỘC HÀNH LỄ Độ nửa giờ trước khi trăng tròn, lúc đức Văn Minh Đại Đế vừa ra hiệu thì nhân viên Quần Tiên Hội qui tụ lại chỗ khoảng trống chính giữa vùng cao nguyên, ở phía bắc tảng đá lớn dựng làm bàn thờ. Các Ngài sắp hàng theo ba vòng tròn lớn, tất cả đều day mặt vào trong, vòng phía ngoài gồm những nhân viên trẻ tuổi trong Quần Tiên Hội, còn vòng ở phía trong là những Đấng cao hơn. Vài đoạn kinh Phật được ngâm lên bằng tiếng nam Phạn (Pali); khi giọng ngâm vừa dứt, thì Đức Di Lạc Bồ Tát hiện ra ở trung tâm vòng tròn và cầm nơi tay một cây thần trượng (cây gậy phép). Cây thần trượng này là bửu vật để thu thần lực của đức Hành Tinh Chơn Quân [1] và được Ngài truyền từ điển kể từ hằng mấy triệu năm về trước, khi Ngài bắt đầu vận chuyển luồng sóng sinh hoạt của nhân loại trên dãy hành tinh chúng ta hiện nay. Chúng tôi nghe nói cây gậy phép này thể hiện cho sự tập trung thần thức của đức Chơn Quân, và nó được thuyên chuyển từ bầu hành tinh này sang bầu hành tinh khác mỗi khi Ngài chuyển di thần thức của Ngài vào một bầu thế giới nhứt định. Nói một cách khác, hễ cây gậy phép này ở nơi nào, thì nơi đó đương thời là trung tâm điểm sân trường tiến hóa của vạn vật, khi nó rời khỏi bầu hành tinh của chúng ta để chuyển qua bầu thế giới khác, thì quả địa cầu này sẽ đắm chìm trong giấc ngủ triền miên, không còn sinh hoạt nữa. ![]() Thần trượng Việc nó có được thuyên chuyển qua những bầu thế giới vô hình [2] hay không, thì chúng tôi không được biết. Chúng tôi cũng không biết rõ cách sử dụng cây gậy phép này ra sao về vai trò của nó trong việc giữ gìn kho thần lực của thế giới. Lúc bình thường, nó được giao cho Đức Ngọc Đế gìn giữ tại Shamballa và theo chỗ chúng tôi được biết thì cuộc lễ Wesak là cơ hội duy nhứt mà nó rời khỏi tay Ngài. Cây gậy hình dáng giống cây đoản côn, làm bằng chất kim khí rất hiếm gọi là «Orichalcun» bề dài độ chừng 7 tấc và bề tròn đường kính độ chừng 7 phân; ở hai đầu, mỗi đầu đều có một viên kim cương hình tròn như trái cam và một cái mũi nhọn chụp lên trên. Cây gậy phép này luôn luôn tỏa ra một hào quang sáng rực như ánh lửa. Điều đáng ghi nhận là chỉ có một mình Đức Di Lạc Bồ Tát sử dụng cây gậy phép trong suốt cuộc lễ. Khi Ngài vừa hiện ra ở chính giữa ba vòng tròn, thì tất cả các vị Chơn Sư và các đệ tử đều kính cẩn nghiêng mình để chào Ngài, và một đoạn kinh khác lại được ngâm lên. Sau đó, khi giọng ngâm vẫn vang rền, thì hai vòng tròn cử động và dời chỗ để sắp hàng thành một hình chữ thập và Đức Di Lạc vẫn đứng ở ngay trung tâm. Trong giai đoạn thuyên chuyển kế đó, hình chữ thập đổi lại thành hình tam giác, và Đức Bồ Tát cũng dời chỗ để đứng ở ngay góc trên đầu, gần kế bên bàn thờ bằng đá. Trên bàn thờ, ở chỗ khoảng trống phía trước cái chén bằng vàng, Đức Bồ Tát kính cẩn đặt cây gậy phép, trong khi đó ở phía sau lưng Ngài, những vị đạo đồ đứng ở vòng ngoài bèn đổi chỗ để biến cái vòng thành hình cái hoa có ba cánh, tất cả đều day mặt về phía bàn thờ. Trong giai đoạn kế đó, hình cái hoa đổi thành hình tam giác lộn đầu, làm thành ra hai hình tam giác tréo góc, y như biểu tượng của Hội Thông Thiên Học, nhưng không có con rắn khoanh tròn. Sau cùng, đến lượt hai hình tam giác này đổi thành hình ngôi sao năm góc, Đức Bồ Tát vẫn đứng nguyên chỗ cũ gần bàn thờ và những vị Đế Quân thì đứng ở năm điểm cách khoảng nhau trên ngôi sao. Đến giai đoạn thứ bảy, tức là giai đoạn cuối cùng, thì giọng ngâm dứt hẳn. Sau một lúc im lặng, Đức Di Lạc lại cầm gậy phép trong tay và đưa lên khỏi đầu, Ngài nói một câu giòn giã bằng tiếng Pali: «Bạch Thế Tôn, tất cả đều sẵn sàng. Xin mời Ngài hạ giáng!» Kế đó, Ngài vừa đặt cây gậy phép xuống bàn thờ, thì vừa đúng lúc trăng tròn, Đức Phật liền xuất hiện như một nhân vật khổng lồ lơ lửng trong không gian, ngay ở trên những ngọn đồi phía nam. Những nhân viên Quần Tiên Hội chấp tay vái chào Ngài, còn đám đông những người hành hương ở phía sau thì cúi lạy rạp mình xuống đất, trong khi đó những người khác ngâm lên ba câu kệ tam qui, tức là qui Phật, qui Pháp, qui Tăng. ![]() ÂN HUỆ LỚN NHỨT Kế đó, đám đông người đứng dậy và chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật trong khi những nhân viên Quần Tiên Hội ngâm bài kinh Mahamangala Sutta để ban phước lành cho họ: I Cả thiên thần và người Đều mong được phước lành Bạch Phật dạy chúng con Phước nào phước lớn nhứt? II Không phụng sự kẻ ngu Mà phụng sự người hiền Trọng vọng người xứng đáng Đó là phước lớn nhứt. III Cư ngụ nơi đất lành Đã làm lành kiếp trước Lòng suy tưởng việc lành Đó ân huệ lớn nhứt. IV Học rộng hiểu biết nhiều Tự chủ và luyện trí Miệng nói những điều lành Đó là phước lớn nhứt. V Nuôi dưỡng cha cùng mẹ Yêu thương vợ với con Theo đuổi nghề nghiệp lành Đó là ân huệ lớn nhứt. VI Ham làm việc bố thí Giúp đỡ kẻ bần hàn Chỉ mong làm việc phải Đó là phước lớn nhứt. VII Không làm điều tội lỗi Không dùng chất rượu mạnh Làm lành không tiếc thân Đó là ân huệ lớn nhứt. VIII Kính cẩn và khiêm tốn An phận và biết ơn Bốn mùa nghe chánh pháp Đó là phước lớn nhứt. IX Chịu cực và kiên nhẫn Giao du với bạn hiền Luận đàm việc đạo lý Đó ân huệ lớn nhứt. X Tiết độ và trong sạch Hiểu biết Tứ Diệu Đế Tâm hướng Niết bàn cảnh Đó là phước lớn nhứt. XI Giữa cuộc đời chìm nổi Lòng vẫn không xao động Yên tịnh, không phiền não Đó là huệ lớn nhứt. XII Ai làm được như thế Dù gặp hoàn cảnh nào Trong lòng vẫn thanh tịnh Người ấy phước lớn nhứt. Hình ảnh đức Phật hiện trên đỉnh đồi tuy là rất lớn, nhưng giống như tướng mạo của Ngài lúc còn sanh tiền. Ngài ngồi kiết dà, hai bàn tay giao nhau, mình mặc áo cà sa vàng theo lối tăng lữ, cánh tay mặt để trần. Gương mặt Ngài biểu lộ sự trầm tĩnh, quyền lực, minh triết và bác ái đến một mực tuyệt đối thiêng liêng ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, thật là khôn tả. Nước da Ngài màu ngà, những nét trên mặt Ngài rất rõ rệt, một vầng trán rộng, cặp mắt lớn và sáng màu xanh đậm, mũi cao, cặp môi đỏ, nhưng đó chỉ là tạm phác họa thô sơ hình dáng bề ngoài mà thôi, chớ không đủ diễn tả phong độ uy nghi và thần sắc siêu việt của Ngài một cách đầy đủ trọn vẹn. Tóc Ngài màu đen và dợn sóng, không để dài như phong tục Ấn Độ, cũng không hoàn toàn xuống tóc như các vị sư tăng, mà cắt ngắn chí cổ, chưa chấm xuống vai, chẻ ra ở giữa và chải ngược về phía sau. Truyện tích nói khi thái tử Sĩ Đạt Ta rời khỏi cung điện quyết chí đi tìm đạo, Ngài rút gươm cắt tóc ngay vừa khỏi đầu, và từ đó đến sau tóc Ngài vẫn để ngắn như thế. Một khía cạnh đặc biệt nhứt của hình ảnh Đức Phật hiện, là hào quang của Ngài tốt đẹp vô cùng bao bọc chung quanh. Hào quang đó gồm nhiều từng lớp đồng một trung tâm, như những hào quang của các bậc đã tiến hóa cao, và chiếu những màu sắc thật đặc biệt. Hình ảnh Đức Phật được bao bọc trong một vừng ánh sáng vừa chói lòa, vừa trong vắt, chói lòa đến nỗi mắt phàm không thể nhìn lâu, nhưng đồng thời lại trong suốt, làm cho gương mặt Ngài và màu áo hiện rõ hoàn toàn. Phía ngoài là, một vòng màu xanh dương, nối tiếp theo là những vòng màu vàng chói, màu hường, màu trắng bạc và màu đỏ rất đẹp, tất cả những màu sắc này thật ra là những khối tròn, nhưng hiện ra trên nền trời xanh như những vòng tròn cùng một trung tâm. Phía ngoài tất cả, từ những vòng hào quang này bắn ra những tia chớp đủ màu sắc lẫn lộn có cả màu lục và màu tím. Trong những sách khác, chúng tôi có nói đến màu đỏ trong hào quang biểu lộ sự nóng giận. Điều này đúng trong thể vía của người thường; thuộc về bốn cảnh thấp của cõi trung giới. Nhưng ngoài ra, chúng tôi còn nhận thấy trên những cõi cao siêu, một màu đỏ trong sáng và đẹp lộng lẫy, giống như tinh hoa của ngọn lửa, là biểu hiện của một lòng dũng cảm và cương quyết mạnh mẽ phi thường. Màu đỏ này trong hào quang của Đức Phật tự nhiên là biểu lộ những đức tánh kể trên đến một mức tuyệt đích vậy. Khi đoạn kinh Mahamangala Sutta ngâm vừa dứt, Đức Di Lạc cầm lấy cái chén bằng vàng đựng nước trên bàn thờ, và nâng lên khỏi đầu Ngài trong một lúc. Trong khi đó, đám đông ở phía sau cũng đã chuẩn bị sẵn và đem theo những bình đựng nước, liền làm theo Ngài. Khi Ngài đặt cái chén lại chỗ cũ trên bàn thờ, thì một đoạn kinh khác lại được ngâm lên, lời lẽ ca tụng Đức Thích Ca Như Lai. Tiếng ngâm vừa dứt, một nụ cười đầy bác ái nở trên gương mặt Đức Như Lai. Ngài đưa bàn tay mặt lên để ban ân huệ, trong khi đó hàng ngàn cánh hoa rơi xuống như mưa giữa đám dân chúng. Một lần nữa những nhân viên Quần Tiên Hội lại vái chào, đám đông cúi lạy rạp xuống đất, hình ảnh Đức Phật trở nên lu mờ và từ từ biến mất, trong khi đó những người hành hương thốt ra những tiếng kêu vui mừng và ca tụng. Những nhân viên Quần Tiên Hội liền theo thứ tự tiến đến bàn thờ, và thay phiên nhau uống hớp nước trong cái chén vàng. Còn dân chúng cũng uống một hớp nước trong bình riêng của họ, và phần còn lại thì họ đem về nhà để dùng làm «nước thánh», có công dụng trừ tà hoặc để chữa bịnh. Kế đó, đám người hành hương phân chia tứ tán sau khi đã trao đổi những lời chúc tụng lẫn nhau, và họ trở về nhà, mang theo kỷ niệm khó quên của cuộc lễ thiêng liêng mà họ vừa tham dự. ĐỨC DI LẠC BỒ TÁT [3] Đức Di Lạc, tên Ngài có nghĩa là lòng bác ái hay từ bi, đảm nhiệm chức vụ Bồ Tát khi Đức Thích Ca thành Phật, và từ đó đến nay, Ngài đã giúp đỡ rất nhiều về phương diện phát triển tôn giáo. Một trong những công việc đầu tiên của Ngài khi vừa nhậm chức là thừa dịp thế gian còn đang được thấm nhuần luồng từ điển dồi dào mạnh mẽ do sự hiện diện của Đức Phật tỏa ra, Ngài bèn sắp đặt cho những bậc Giáo Chủ xuất hiện cùng một lúc ở nhiều vùng khác nhau trên địa cầu. Bởi đó, trong một khoảng thời gian ngắn, chúng ta thấy không những Đức Phật Thích Ca, Đức Giáo Chủ Shankaracharya và Mahavira xuất hiện ở Ấn Độ, mà còn có Đức Mithra xuất hiện ở Ba Tư, Đức Lão Tử và Khổng Tử ở Trung Hoa và Đức Pythagoras ở xứ cổ Hy Lạp. Chính Đức Di Lạc đã xuất hiện hai lần, một lần làm Đức Krishna ở vùng đồng bằng Ấn Độ và một lần làm Christ ở xứ Palestine. Trong kiếp thai sinh làm Krishna, đặc điểm lớn nhứt của Ngài vẫn là bác ái; và trong lần chuyển kiếp ở xứ Palestine, lòng bác ái cũng vẫn là điểm cốt yếu trong giáo lý của Ngài. Ngài nói: «Điều răn mới mà Ta đem đến cho các ngươi, đó là: các ngươi hãy thương yêu lẫn nhau, cũng như ta thương yêu các ngươi vậy.» Ngài muốn cho tất cả các đệ tử đều có thể hợp nhứt với Ngài, cũng như Ngài đã hợp nhứt với đấng Cha lành. Vị tông đồ thân tín nhứt của Ngài, là thánh John, cũng đặc biệt nhấn mạnh về một ý nghĩa tương tự: «Kẻ nào không thương yêu đồng loại thì không biết được Thượng Đế, vì Thượng Đế tức là bác ái vậy.» Người nào đã đọc kinh Bhagavad Gita đều nhớ những giáo điều về lòng bác ái và sùng tín trong quyển kinh đó. Đức Bồ Tát thỉnh thoảng cũng nhập xác Đức Tsong Ka Pa, nhà cải tạo tôn giáo danh tiếng của xứ Tây Tạng, và trải qua nhiều thế kỷ Ngài đã từng gởi các vị đệ tử của Ngài như Nagarjuna, Aryasanga, Ramanujacharya, Madhavacharya, v.v… xuống thế gian để thành lập những môn phái mới, hoặc để làm sáng tỏ những chỗ huyền bí trong tôn giáo. Trong số những đệ tử của Ngài, có một vị được gởi xuống thế gian để lập nên Hồi giáo. Việc phái các bậc Giáo Chủ xuống thế gian như tôi đã kể trên chỉ là một phần công việc của Ngài, công việc giáo hóa này không phải chỉ giới hạn trong vòng nhân loại mà thôi, mà còn gồm tất cả mọi chúng sinh, và luôn luôn cả hàng thiên thần. Như thế, Ngài là vị Trưởng Thượng của tất cả những tôn giáo hiện hữu trên thế giới, và của nhiều tôn giáo khác đã từng mai một với thời gian, nay đã biến mất không còn nữa. Lẽ tất nhiên, Ngài chỉ có trách nhiệm về những tôn giáo đó trong hình thức ban sơ của nó mà thôi, chớ không có liên quan gì đến những sự biến thiên dời đổi do con người tạo ra trong những tôn giáo đó trải qua thời gian. Ngài thay đổi hình thức mỗi tôn giáo để cho phù hợp với nhân loại ở mỗi thời kỳ lịch sử mà nó được đưa ra; và mặc dầu phần hình thức có thể thay đổi cho phù hợp với trào lưu tiến hóa, nhưng phần giáo lý vẫn giống nhau. Trong thời kỳ tiến hóa của một giống dân, Ngài sẽ còn trở lại thế gian nhiều lần nữa để thành lập nhiều tôn giáo khác. Mỗi lần như thế, Ngài sẽ qui tựu chung quanh những người nào sẵn sàng theo Ngài, trong số đó Ngài sẽ chọn lấy vài người mà Ngài có thể liên lạc mật thiết hơn, tức là những vị đệ tử, hiểu theo ý nghĩa của huyền môn. Đến giai đoạn cuối cùng của giống dân, khi đã vượt qua khỏi thời kỳ cực thịnh của nó từ lâu, và một giống dân mới bắt đầu ngự trị trên địa cầu, Ngài sẽ sắp đặt cho tất cả những vị đệ tử thân tín đã từng theo Ngài trong những kiếp trước, sẽ đầu thai cùng một thời trong dịp Ngài chuyển kiếp lần cuối cùng xuống thế gian. Trong kiếp cuối cùng này, Ngài sẽ đạt tới quả vị Phật và hoàn toàn giác ngộ. Khi đó những vị đệ tử của Ngài trước kia, tuy không nhận ra Ngài về phương diện thể xác, nhưng sẽ bị hấp dẫn một cách rất mãnh liệt đến gần Ngài. Nhờ ảnh hưởng của Ngài, một số rất đông các vị đó sẽ bước vào cửa đạo, và nhiều vị còn tiến lên những cấp đẳng cao hơn, vì họ đã từng tiến hóa nhiều trong những kiếp trước. Trong các kinh sách Phật có nói khi Đức Thích Ca thành đạo và đắc quả vị Phật, tức thời có một số rất đông người cũng đắc quả La Hán. Khi mới nghe qua, chúng tôi nghĩ rằng điều ấy không thể có được, nhưng xét kỹ chúng tôi thấy câu chuyện ấy có phần đúng sự thật. Có thể nói số đông người thì hơi quá đáng, nhưng sự thật có rất nhiều vị đệ tử đột nhiên đắc quả vị La Hán nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của luồng từ điển và thần lực vô cùng mạnh mẽ và huyền diệu của Đức Phật tạo nên. --------------- [3] Ngoài lễ Wesak còn lễ Asala được cử hành vào ngày rằm tháng Asala, thường đúng nhắm tháng bảy dương lịch, gọi là ngày Phật Chuyển Pháp Luân. | ![]() |
![]() | ![]() | |
![]() | ![]() | |
![]() | ![]() | |
| ||
| ||
| ||
| ||
Những sách dưới đây sẽ lần lượt đưa lên : Trước Thềm Thánh Điện Ðời Sống Huyền Bí Của Thái Dương Hệ | ||
Để làm quen với quan niệm của Thông Thiên Học mời các bạn đọc những tác phẩm sau: | ||
Những Tài Liệu Nghiên Cứu : Dưới Chân Thầy Bí Quyết Thông Thiên Học Giáo Lý Bí Truyền (đang soạn) Nữ Thần Isis Lộ Diện (đang soạn) Books Magazines | ||
| ||
Hội Thông Thiên Học Ðược Thành Lập 7-11-1875 Bởi Bà Helena Petrovna Blavatsky Và Ông Henry Steel Olcott The Theosophical Society Adyar, Chennai 600020, India Phone: 91-44-4912815 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét